Thứ Ba, 28 tháng 5, 2013

DU LỊCH TÂM LINH

5 ngôi chùa nên viếng vào mùa lễ Phật đản

Với các đặc điểm như ngôi chùa “lớn tuổi” nhất, chùa có tháp đá cao nhất, chùa có tháp chuông cao nhất...  đây là 5 ngôi chùa bạn nên đến ở Sài Gòn trong mùa lễ Phật đản năm nay.

Giác Lâm – chùa “lớn tuổi” nhất
Chùa Giác Lâm còn có các tên Cẩm Sơn, Sơn Can hay Cẩm Đệm là một trong những ngôi chùa cổ nhất của TP. HCM. Chùa được cư sĩ Lý Thụy Long quyên tiền xây dựng vào mùa xuân năm Giáp Tý (1744).
Kiến trúc chùa Giác Lâm được coi là tiêu biểu cho lối kiến trúc của các chùa Nam Bộ, với mặt bằng tổng thể theo kiểu chữ Tam, gồm 98 cột chống đỡ. Cột nào cũng được chạm khắc câu đối, thiếp vàng công phu. Giữa các hàng cột là các cửa võng, cũng được thiếp vàng, chạm trổ các đề tài trang trí truyền thống như tứ linh, tứ quý, hoa điểu...
Trong chùa có 113 pho tượng cổ, chủ yếu là tượng gỗ, chỉ có 7 tượng đồng. Có nhiều tượng có giá trị như: Tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, Di Lặc Bồ Tát; tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng Tổ Sư Đạt Ma…
Hiện chùa là ngôi Tổ đình danh tiếng bậc nhất, chứa đựng nhiều tư liệu quý báu về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, tôn giáo như hoành phi, câu đối, bàn thờ, đồ thờ cổ… Riêng bộ tượng Thập Bát La Hán là minh chứng rõ nét nhất cho quá trình phát triển của Phật giáo ở Nam bộ.
Địa chỉ: 118 đường Lạc Long Quân, P. 10, Q. Tân Bình, TP. HCM.
Chùa Vĩnh Nghiêm – Nơi có tháp đá cao và công phu nhất Việt Nam
Cổng chùa.
Bái điện.
Tháp đá Vĩnh Nghiêm.
Chùa Vĩnh Nghiêm được hai Hòa thượng là Thích Tâm Giác và Thích Thanh Kiểm sau khi vào miền Nam truyền bá đạo Phật đã cho xây dựng lấy nguyên mẫu thiết kế của chùa Vĩnh Nghiêm vốn là trung tâm truyền bá Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm.ở Bắc Giang,
Chùa được khởi công năm 1964 tại khu đất thấp nằm bên rạch Thị Nghè. Trong quá trình xây dựng, người ta phải chuyển khoảng 40.000 m³ đất từ xa lộ Hà Nội về san lấp mặt bằng. Kinh phí xây dựng chùa khoảng 98 triệu đồng tiền lúc bấy giờ.
Kiến trúc chùa theo lối cổ miền Bắc Việt Nam. Tổng thể kiến trúc gồm các hạng mục chính là Tam quan, tòa nhà trung tâm và các Bảo tháp.
Tháp đá Vĩnh Nghiêm (vừa qua cổng, tháp ở bên phải) khánh thành năm 2003 được xem là ngôi tháp đá đầu tiên ở miền Nam, và cũng là ngôi tháp đá lớn nhất, cao nhất Việt Nam từ trước đến nay. Tháp được xây dựng với nghệ thuật trổ đá dày đặc, công phu với hoa văn, họa tiết điêu khắc phủ kín… tất cả đều theo phong cách văn hóa Lý – Trần.
Địa chỉ: 339 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P. 7, Q. 3, TP. HCM.
Chùa Hoằng Pháp – Nổi tiếng với khóa tu mùa hè dành cho teen
Chùa Hoằng Pháp.
Tháp Nhị Nghiêm.
Các bạn trẻ tham gia khóa tu mùa hè.
Chùa Hoằng Pháp thuộc hệ phái Bắc tông, do cố Hòa thượng Ngộ Chân Tử sáng lập năm 1957. Sau nhiều lần trùng tu, hiện chùa mang dáng vẻ cổ kính của chùa miền Bắc với góc đao cong vút, 2 tầng mái ngói màu đỏ. Toàn bộ nền móng, đà, cột, trần, mái đều đúc bê tông kiên cố, tường xây gạch, mặt ngoài dán gạch men, mặt trong sơn nước. Nền lót gạch granite nhập từ Tây Ban Nha. Toàn bộ cánh cửa, bao lam, án thờ đề làm bằng gỗ quý, chạm trổ tinh vi.
Chùa Hoằng Pháp nổi tiếng là nơi thu hút các tín đồ Phật giáo đến tham quan và tham gia các khóa tu Phật nhất. Trong đó có khóa tu hè trong vòng 7 ngày giúp giới trẻ cân bằng giữa đời sống vật chất và tinh thần, hóa giải buồn phiền, xây dựng hành trang cần thiết cho tương lai, tìm về về những giá trị sống đích thực rất được hưởng ứng. Song song với điều này, những quy tắc sinh hoạt nghiêm khắc như đi ngủ, thức dậy sớm… giúp teen “cai nghiện” máy tính. Khóa tu này hoàn toàn miễn phí.
Địa chỉ: Xã Tân Hiệp, Hóc Môn, TP. HCM.
Xá Lợi – Chùa có tháp chuông cao nhất Việt Nam
Tháp Xá Lợi.
Tượng Phật thếp vàng trong chùa.
Chùa Xá Lợi được hoàn thành vào ngày 2/5/1958. Chùa được xây dựng để thờ xá lợi Phật tổ nên được đặt tên chùa là Xá Lợi.
Chùa Xá Lợi là ngôi chùa đầu tiên của thành phố được xây dựng theo lối kiến trúc mới, trên là bái đường, phía dưới là giảng đường. Chùa là trụ sở chính của Hội Phật học Nam Việt từ năm 1951 cho đến năm 1981. Trong hai năm 1964-1966 chùa còn là cơ sở giảng dạy của Viện Đại học Vạn Hạnh. Từ năm 1981 đến tháng 5/1993 chùa là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Văn phòng II).
Tháp chuông chùa Xá Lợi được khánh thành trong năm 1961. Tháp cao 32 mét, gồm 7 tầng, là tháp chuông cao nhất Việt Nam. Tầng cao nhất có treo một đại hồng chung nặng 2 tấn, được đúc đồng theo mẫu của chuông chùa Thiên Mụ (Huế).
Không chỉ được biết đến với kiến trúc và cảnh quan tuyệt đẹp mà còn khá nổi tiếng với những dấu chứng lịch sử về cuộc đấu tranh của Phật tử chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm kỳ thị và đàn áp tôn giáo.
Địa chỉ: 89 Bà Huyện Thanh Quan, P. 7, Q. 3, TP. HCM.
Nam thiên đệ nhất trụ – Chùa Một Cột ở miền Nam
Cổng Nam Thiên Nhất Trụ.
Và Nam Thiên Nhất Trụ mô phỏng theo chùa một cột ở Hà Nội.
“Nam Thiên nhất trụ” gọi nôm na là chùa Một Cột ở miền Nam, do hòa thượng Thích Trí Dũng dựng vào năm 1958 và hoàn tất vào năm 1977 với mục đích vừa là di tích lịch sử vừa là danh lam thắng cảnh để nhân dân miền Nam chiêm ngưỡng.
Nam Thiên Nhất Trụ tuân thủ khuôn mẫu Thăng Long nhất trụ ở Hà Nội nhưng thấp và nhỏ hơn. Nhìn từ cổng tam quan, Nam Thiên Nhất Trụ được dựng giữa lòng hồ Long Nhãn, với hoa sen dập dìu trên sóng nước, vừa tinh khiết, vừa thanh tịnh.
Ngoài ra, đến đây bạn còn được chiêm bái tượng Đức Địa Tạng nặng 61 kg được đúc bằng kim loại quý.
Địa chỉ: 511 Đặng Văn Bi, P. Bình Thọ, Q. Thủ Đức, TP. HCM.
AN HUỲNH
Ảnh: Sưu tầm
Theo Infonet
http://news.zing.vn/choi-vui/5-ngoi-chua-nen-vieng-vao-mua-le-phat-dan/a322530.html#chuyenmuc_newest

Ý nghĩa và tầm quan trọng


Lễ Phật Đản


Phật Đản là ngày nghỉ lễ quốc gia tại nhiều quốc gia Châu Á như Thái LanSri LankaMalaysiaSingaporeIndonesiaHồng Kông,Miến ĐiệnĐài LoanCampuchia,...
 Tại Việt Nam, ngày này không phải ngày nghỉ lễ được công nhận chính thức.
Vào ngày lễ, Phật tử thường vinh danh Tam bảo : Phật, Pháp, Tăng (qua các hình thức như dâng cúng, tặng hoa, đến nghe thuyết giảng), và thực hành ăn chay và giữ Ngũ giớiTứ vô lượng tâm, thực hành bố thí và làm việc từ thiện, tặng quà, tiền cho những người yếu kém trong cộng đồng. Kỷ niệm Vesākha cũng có nghĩa là làm những nỗ lực đặc biệt để mang lại hạnh phúc, niềm vui cho những người bất hạnh như người già cao niên, người khuyết tật và người bệnh, chia sẻ niềm vui và hòa bình với mọi người.
Ở một số quốc gia, đặc biệt là Sri Lanka, hai ngày được dành cho việc cử hành Vesākha và tất cả các cửa hàng rượu, bia và lò giết mổ phải đóng cửa do nghị định của chính phủ. Chim, côn trùng và thú vật được phóng sinh như là một "hành động mang tính biểu tượng của sự giải thoát", của sự trả tự do cho những người bị giam cầm, bị bỏ tù, bị tra tấn trái với ý muốn của họ.

Lễ Phật đản được công nhận là một ngày nghỉ lễ chính thức tại miền Nam Việt Nam bắt đầu từ năm 1958 do chính phủ Đệ nhất Cộng hòa của chính thể Việt Nam Cộng hòa thông qua.[6] Khi Việt Nam thống nhất sau khi chấm dứt chiến tranh Việt Nam năm 1975, thì ngày này không còn là ngày lễ quốc gia.
Những năm gần đây, ngày Phật Đản được coi là một ngày lễ hội quan trọng, thu hút sự tham gia không chỉ của Phật tử mà còn là của người dân trên mọi miền của Việt Nam.

Nghĩ về ngày Quốc Lễ Phật Đản trong lịch sử dân tộcChủ nhật, 05/05/2013 | 21:59:39 PM

PTO - Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương, trí tuệ và phẩm hạnh của Đức Phật đã nở hoa trong tâm thức văn hóa Việt. Cũng với tâm thức gần gũi ấy, Đức Phật đã trở thành ông Bụt, hiện thân cho tình thương, lẽ công bằng, rồi nhanh chóng đi vào cổ tích, huyền thoại và phương thức ứng xử của mọi người… Và kể từ khi chùa Khai Quốc (Mở Nước) được dựng nên, vị hoàng đế và nên văn hóa tự chủ đầu tiên đã khẳng định Đức Phật ở trong tâm mình. Đức Phật của dân tộc Việt Nam.

Dẫu chưa có nhiều tư liệu cung cấp đầy đủ những thông tin về ngày Lễ Phật đản, nhưng thông qua mối liên hệ và quy mô của những lễ hội được ghi chép trong sử sách, chúng ta có thể tìm ra sự dung hội trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của người Việt. Từ đó xây dựng dù chỉ là khái quát bức tranh về ngày Lễ Phật đản trong một mối liên hệ đặc thù với văn hóa bản địa. Sâu rộng hơn cả chính là các lễ hội Phật giáo được nằm trong sự bảo trợ đầy thành kính của nhiều vị vua Phật tử. Có thể nói, ở điểm này, nhiều nhà lãnh đạo đã bộc lộ tầm nhìn bao quát, sáng suốt trong việc ổn định chính trị, cũng như đáp ứng được khát vọng tâm linh, thể hiện trách nhiệm của người Phật tử trước dân tộc, tiến tới xây dựng một xã hội nhân nghĩa, thuần hậu trong sự khác biệt, ước thúc lẫn nhau của ba hệ tư tưởng Phật – Đạo – Nho đương thời, mà ở đó, Phật giáo luôn giữ vai trò trung tâm, hòa giải.


Đại Việt sử ký toàn thư
 có viết, vào đời vua Lý Thánh Tông, năm Nhâm Tý, Thần Vũ 1072: “Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 8, vua xem lễ tắm Phật”. Còn vua Lý Nhân Tông: “Mùa hạ, ngày mồng 8 tháng 4, xa giá ngự đến, đặt lễ cầu phúc, bày nghi thức tắm Phật, hàng năm lấy làm lệ thường”…


Trong Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh, Nguyễn Công Bật viết về không khí đầy sinh động của ngày Lễ Phật đản như sau: “Nhà vua tôn sùng đạo Phật, hâm mộ thắng nhân. Mở chùa Diên Hựu ở tại vườn Tây. Dấu vết theo quy mô thuở trước, lo toan cho thánh ý ngày nay. Đào ao thơm Linh Chiểu, giữa ao chồi lên một cột đá, trên cột đá có một đóa sen nghìn cánh xòe ra. Trên hoa dựng ngôi đền đỏ sẫm, trong đền đặt pho tượng sắt vàng. Ngoài ao có hành lang bao bọc. Ngoài hành lang lại có ao Bích Trì, bắt cầu cong để đi lại. Ở sân trước cầu, hai bên tả hữu xây tháp báu lưu ly. Để mồng một hàng tháng, để mùa xuân hàng năm, nhà vua thân ngồi xe ngọc, đến mở tiệc chay. Hương hoa bày ra hình thức kỳ an, bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng, tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa. Tinh cần chẳng trễ, kính phụng nào ngơi. Vì vậy mà huyền tạo linh thông, đều cùng phù hộ”…


Việc nhân dân, triều thần quy ngưỡng về ngày Phật đản và đích thân nhà vua làm chủ lễ cho thấy Phật đản thực sự là một ngày quốc lễ. Và trong không khí của ngày quốc lễ đó, các vị vua không chỉ thể hiện lòng thành kính nhất tâm quy Phật, thể hiện tinh thần từ bi, khoan thứ mà còn gửi gắm tâm nguyện trị quốc an dân, giữ vững nền độc lập dân tộc. Điều này nói lên sự thâm nhập của đạo Phật vào tận nguồn cội của văn hóa Việt Nam, đến mức không thể phân chia được.


Đơn cử vào ngày Lễ khánh thành tháp Sùng Thiện Diên Linh, hoàng đế đã đích thân tham dự: “Khói trầm đàn như mây tỏa khắp sơn khê, bóng cờ phướn như ráng phô đầy muôn ngả. Chuông trống vang lừng, khánh tiu rộn rã. Phía trước xe mây Tam bảo, đằng sau kiệu báu thánh hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung, về hết trẻ già muôn nước. Điện hoa vắt ngang phía trước, chùa Phật mở rộng bên trong. Hội tăng ni trai khiết, diễn Giác đế chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang, đọc kệ đoạn cúi đầu tạ lễ; cung nga khép nép, nghe kinh xong dâng sữa múa ca. Thổi cơm chay trắng muốt, thết khách đói qua đường; phát tiền quý ùn ùn, cấp dân nghèo khắp chốn. U hiển đều về, thiên long cùng đến. Đem lực công tối thượng, phúc đức vô lường, ca ngợi hoàng cương vững bền như trời đất; cầu mong bảo vận vằng vặc như trăng sao. Sớm sinh thái tử, nối mãi mệnh trời. Mong gốc ngành ngàn thuở, cầu xã tắc muôn năm. Cỏ lướt nhiều phương, quỳ nghiêng muôn nước. Thần dân yêu mến, tổ khảo khuông phù. Thần đạo giúp ngầm, trời người nâng đỡ” (Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh).


Sự mô tả này cho thấy, chính tinh thần và tâm nguyện dựa trên nền tảng Phật pháp đã có sức vận động lớn lao sức dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì thể hiện mạnh mẽ lòng tự hào dân tộc nên đã quy tập được các tư tưởng khác nhau phục vụ cho công cuộc chung. Đặc biệt, các vua Lý đều nhân dịp mở hội Phật mà đại xá thiên hạ, tha tội cho các tù nhân, chu cấp tiền, lương cho dân nghèo… Điều đó càng tăng thêm ý nghĩa và sức sống của Phật pháp. Đến nỗi sử nho Ngô Sĩ Liên phải viết: “Nhân Tông thường nhân việc mở hội Phật mà tha cho người hết tội, là không phải lẽ, nhưng mà còn mượn tiếng hội Phật. Còn như vua Tần Nhân Tông thì không có việc gì mà cũng tha bổng”. Lòng nhân ấy đã hướng dẫn hành vi của nhiều nhà lãnh đạo, nên đã tránh cho dân tộc không đi vào con đường chiến tranh hận thù, huynh đệ tương tàn, mà có một đời sống tâm linh phong phú, vì thế lịch sử đã minh chứng rất rõ, thời đại Lý-Trần là thời đại mà con người sống khoan dung, nhân hiếu, thuần hậu và giàu bản sắc hơn hết.


Chúng ta đã từng có một ngày quốc lễ trang nghiêm, hoành tráng, nô nức, hân hoan… như thế. Nhưng vì chiến tranh, vì những nhận thức sai lầm về văn hóa trong một thời gian lâu dài, Lễ Phât đản nhiều lúc đã bị thu hẹp không gian văn hóa, tâm linh, và vì nhiều lý do khác nhau, đến nay vẫn chưa có nhiều dấu hiệu phục hồi thực sự. Thế nên, chỉ có tinh thần khoan dung tư tưởngvà đời sống giàu bản sắc của nghìn năm về trước mới đủ cơ sở để chúng ta vượt qua mọi giới hạn của nhận thức, mọi thái độ hẹp hòi trong văn hóa, và chỉ có tinh thần tự tôn, thủy chung với dân tộc, người Phật tử mới có thể “gặp Đức Phật trong lòng dân tộc”, bởi không ít lần chúng ta đã bỏ quên Đức Phật của dân tộc mình, của tâm hồn mình. Như vậy, ngày Lễ Phật đản không chỉ là ngày chúng ta tỏ lòng tôn kính Đức Phật, tri ân tổ tiên đã làm rạng danh non sông mà còn là ngày chúng ta tìm lại cho chính mình một ngôn ngữ của yêu thương và hòa bình.
Thích Thanh Thắng ( Tạp chí văn hoá Phật giáo 16 )

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét